THÔNG TIN VỀ THÀNH PHẦN: BẠCH HOA XÀ
Tên khác:
Đuôi công hoa trắng, cây lá đinh, bạch tuyết hoa, cây chiến
Thành phần:
Plumbago zeylanica
Tác dụng:
Cây thuốc Bạch hoa xà mới chỉ được dùng trong phạm vi dân gian làm thuốc chữa những bệnh ngoài da, vết loét, vết thương. Thường dùng rễ giã nhỏ với cơm cho thành một thứ bột nhão, đắp lên những nơi sưng đau. Có nơi sắc rễ lấy nước bôi ghẻ.
+ Ở Trung Quốc, thường dùng trị:
- Phong thấp đau nhức xương, da thịt thâm tím
- Đau dạ dày, gan lách sưng phù
- Bệnh ngoài da (hecpet mọc vòng), nhọt mủ, bong gân. Kinh nghiệm dân gian dùng lá giã đắp chữa đinh nhọt rất đặc hiệu, do đó có tên là cây lá dính.
+ Ở Inđônêxia cũng dùng chữa bệnh ngoài da, thấp khớp, nhức đầu, các bệnh về cơ quan tiết niệu và làm thuốc gây sẩy thai. Để chữa các bệnh ngoài da, người ta lấy lá và rễ giã ra trộn lẫn với bột gạo làm thuốc đắp. Để trị nhức đầu, chỉ cần dùng một lượng nhỏ thuốc đắp vào phía sau tai sẽ làm giảm đau.
+ Ở Philippin, nước sắc rễ dùng trị ghẻ.
+ Ở Ấn Độ, người ta dùng rễ trị các bệnh ngoài da, tiêu chảy, khó tiêu, bệnh trĩ, phù toàn thân, làm thành bột đắp với giấm, sữa hay muối và nước dùng đắp ngoài trị phong hủi và những bệnh ngoài da khác. Cồn thuốc của rễ cây có khả năng làm ra mồ hôi. Dịch sữa của cây dùng đắp trị ghẻ và mụn loét.
Chỉ định:
- Trị sưng đau, ghẻ lở: Dùng rễ 10-15g đun sôi kỹ trong 4 giờ, lấy nước uống hoặc lấy rễ ngâm rượu xoa bóp. Rễ, lá giã nhỏ đắp lên nơi sưng đau. Sắc rễ lấy nước bôi ghẻ.
Quá liều:
Chống chỉ định:
Tác dụng phụ:
Thận trọng:
Tương tác thuốc:
Dược lực:
Dược động học:
Cách dùng:
Mô tả:
Bạch hoa xà là một loài cỏ sống dai cao 0,3-0,6m, có gốc dạng thân rễ, với thân sù sì, bóng láng. Lá mọc so le, hình trái xoan, hơi có tai và ôm thân, nguyên, nhẵn, nhưng trăng trắng ở mặt dưới. Hoa màu trắng, thành bông ở ngọn và ở nách lá, phủ lông dính, tràng hoa dài gấp đôi đài. Cây ra hoa quả gần như quanh năm, chủ yếu vào tháng 5-6.
Bảo quản: